Áp xe não là gì? Các công bố khoa học về Áp xe não

Áp xe nồi là thông số đo áp suất trong không gian nồi hơi của động cơ, đo lường mức độ tăng áp của turbocharger (còn gọi là sạc khí) trong hệ thống nạp khí động...

Áp xe nồi là thông số đo áp suất trong không gian nồi hơi của động cơ, đo lường mức độ tăng áp của turbocharger (còn gọi là sạc khí) trong hệ thống nạp khí động cơ. Áp xe nồi thông thường được đo bằng đơn vị PSI (pounds per square inch).
Áp xe nồi (hay còn gọi là áp suất động cơ) là áp suất khí nén bên trong nồi hơi của động cơ trong quá trình hoạt động. Đối với động cơ đốt trong, áp xe nồi thường được tạo ra bởi quá trình đốt nhiên liệu, nơi hỗn hợp nhiên liệu và không khí được cháy trong không gian nồi hơi trong động cơ.

Áp xe nồi quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất và công suất của động cơ. Khi áp xe nồi tăng, nhiều khí nén tiếp xúc với nhiên liệu, giúp nhiên liệu cháy mạnh mẽ hơn, làm tăng công suất động cơ. Điều này thường được thực hiện thông qua việc sử dụng các hệ thống tuần hoàn, như turbocharger hoặc supercharger, để nạp thêm khí nén vào nồi hơi.

Công cụ đo áp suất được sử dụng để đo áp xe nồi thường là một bộ đồng hồ đo áp suất, hiển thị áp suất nén tích hợp trong động cơ. Đơn vị thông thường để đo áp xe nồi là PSI (pound per square inch) hoặc bar. Đối với các động cơ tăng áp, áp xe nồi thường cao hơn so với động cơ không tăng áp. Ví dụ, một động cơ tăng áp có thể có áp xe nồi khoảng 10-15 PSI.

Áp xe nồi cũng có thể được kiểm soát bằng cách điều chỉnh van wastegate hoặc van blow-off. Các van này giúp điều chỉnh áp suất nén để đảm bảo động cơ hoạt động ổn định và tránh hỏng hóc do áp suất quá cao.

Trong tổng quát, áp xe nồi là một khía cạnh quan trọng trong quá trình hoạt động của động cơ đốt trong và đóng vai trò quan trọng trong tăng cường hiệu suất và công suất của xe.
Áp xe nồi (hay còn gọi là áp suất động cơ) là áp suất khí nén bên trong nồi hơi của động cơ trong quá trình hoạt động. Áp suất này được tạo ra bởi quá trình cháy nhiên liệu và không khí trong không gian nồi hơi.

Trong một động cơ đốt trong, quá trình cháy nhiên liệu và không khí xảy ra trong nồi hơi của động cơ. Lúc này, nồi hơi đóng vai trò như một không gian nén, nơi áp suất tăng lên đáng kể. Áp suất đột ngột và mạnh mẽ này tạo ra một lực đẩy để lái xe di chuyển và tạo ra công suất.

Đơn vị thông thường để đo áp xe nồi là PSI (pound per square inch) hoặc bar. Áp xe nồi thường được hiển thị trên một bộ đồng hồ đo áp suất tích hợp trong trang bị của động cơ. Khi động cơ hoạt động, áp xe nồi có thể thay đổi, tùy thuộc vào tốc độ, tải trọng và điều kiện môi trường.

Áp xe nồi cũng phụ thuộc vào các yếu tố khác như hệ thống nạp khí (turbocharger hoặc supercharger). Nhờ có hệ thống nạp khí, lượng khí nén nạp vào nồi hơi tăng lên, từ đó tạo ra áp xe nồi cao hơn so với động cơ không nạp khí.

Ví dụ, trong một động cơ tăng áp, áp xe nồi có thể đạt từ 10 PSI đến 30 PSI tuỳ thuộc vào cấu hình và mục đích sử dụng. Các động cơ tăng áp giúp tăng công suất và hiệu suất động cơ bằng cách cung cấp thêm khí nén vào nồi hơi, tạo ra một luồng khí mạnh hơn để đốt nhiên liệu hiệu quả hơn.

Áp suất nồi hơi cũng có thể được kiểm soát bằng cách sử dụng các van điều chỉnh như van wastegate hoặc van blow-off. Van wastegate giúp điều chỉnh áp suất nén bằng cách xả bỏ một phần khí nén ra không gian không khí. Van blow-off được sử dụng để giảm áp suất đột ngột trong hệ thống nạp khí khi áp suất quá cao.

Tổng quát, áp xe nồi đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của động cơ đốt trong, ảnh hưởng đến công suất và hiệu suất của nó. Việc hiểu và kiểm soát áp xe nồi sẽ giúp đảm bảo hiệu quả hoạt động của động cơ và đồng thời tăng cường hiệu suất của xe.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "áp xe não":

Rối loạn đường huyết lúc đói hoặc suy giảm dung nạp glucose. Dấu hiệu nào dự đoán tốt nhất bệnh tiểu đường trong tương lai ở Mauritius? Dịch bởi AI
Diabetes Care - Tập 22 Số 3 - Trang 399-402 - 1999

MỤC TIÊU: Xác định liệu rối loạn đường huyết lúc đói (IFG; mức glucose huyết tương lúc đói 6,1-6,9 mmol/l) có thể dự đoán đáng tin cậy sự phát triển của bệnh tiểu đường loại 2 như suy giảm dung nạp glucose (IGT; mức glucose huyết tương sau 2 giờ 7,8-11,0 mmol/l) hay không. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP: Một nghiên cứu dài hạn theo dân số được tiến hành với các khảo sát năm 1987 và 1992 tại đảo Mauritius, đánh giá tình trạng tiểu đường bằng việc kiểm tra dung nạp glucose qua đường uống. Tổng cộng có 3.717 người tham gia cả hai cuộc khảo sát. Trong số này, 3.229 người không mắc bệnh tiểu đường vào năm 1987 và hình thành cơ sở của nghiên cứu này. KẾT QUẢ: Lúc ban đầu, có 607 đối tượng mắc IGT và 266 đối tượng mắc IFG. Có 297 đối tượng phát triển bệnh tiểu đường vào năm 1992. Để dự đoán tiến triển thành bệnh tiểu đường loại 2, độ nhạy, độ đặc hiệu, và giá trị tiên đoán dương tính là 26, 94, và 29% cho IFG và 50, 84, và 24% cho IGT, tương ứng. Chỉ có 26% số đối tượng tiến triển thành bệnh tiểu đường loại 2 được dự đoán qua giá trị IFG của họ, nhưng 35% nữa có thể được xác định bằng cách xem xét cả IGT. Độ nhạy là 24% cho IFG và 37% cho IGT ở nam giới và 26% cho IFG và 66% cho IGT ở phụ nữ, tương ứng. KẾT LUẬN: Dữ liệu này chứng minh độ nhạy cao hơn của IGT so với IFG trong việc dự đoán tiến triển thành bệnh tiểu đường loại 2. Sàng lọc chỉ theo tiêu chí IFG sẽ xác định ít người tiến triển thành bệnh tiểu đường loại 2 hơn so với kiểm tra dung nạp glucose qua đường uống.

#rối loạn đường huyết lúc đói #suy giảm dung nạp glucose #bệnh tiểu đường loại 2 #dự đoán tiểu đường #xét nghiệm dung nạp glucose #nghiên cứu dân số
Triển khai các xét nghiệm chẩn đoán nhanh bệnh lao và viêm màng não do nấm Cryptococcus ở những bệnh nhân HIV giai đoạn nặng tại Bệnh viện Trung ương Kamuzu, Malawi, 2016–2017 Dịch bởi AI
BMC Infectious Diseases - - 2022
Tóm tắt Đặt vấn đề

Viêm màng não do nấm Cryptococcus (CM) và bệnh lao (TB) vẫn là những nguyên nhân hàng đầu gây nhập viện và tử vong ở những người sống chung với HIV, đặc biệt là những người mắc bệnh HIV giai đoạn nặng. Ở những bệnh nhân nhập viện, việc chẩn đoán kịp thời các bệnh này có thể cải thiện kết quả điều trị. Các xét nghiệm chẩn đoán nhanh HIV giai đoạn nặng như xét nghiệm dòng chảy bên TB lipoarabinomannan trong nước tiểu (urine LAM), xét nghiệm X-pert MTB/RIF trong nước tiểu (urine X-pert), và xét nghiệm kháng nguyên Cryptococcus trong huyết thanh/máu (serum CrAg) được khuyến cáo nhưng thường không có sẵn ở nhiều cơ sở y tế có tài nguyên hạn chế. Chúng tôi mô tả kinh nghiệm của chúng tôi trong việc cung cấp những xét nghiệm này trong một môi trường bệnh viện thường xuyên.

Phương pháp

Từ 1 tháng 8 năm 2016 đến 31 tháng 1 năm 2017, một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu nhằm chẩn đoán TB và viêm màng não do nấm Cryptococcus bằng các xét nghiệm point of care đã được thực hiện tại các khoa điều trị nội ở Bệnh viện Trung ương Kamuzu, ở Lilongwe, Malawi. Các xét nghiệm được cung cấp bao gồm đo lường số lượng tế bào CD4 PIMA, serum CrAg, urine LAM và urine X-pert. Việc xét nghiệm được tích hợp vào một phòng điều trị HIV/TB hiện có tại các khoa và được thực hiện gần thời gian nhập viện. Bệnh nhân được theo dõi cho đến khi xuất viện hoặc tử vong trong khoa.

Kết quả

Chúng tôi đã bao gồm 438 bệnh nhân dương tính với HIV; 76% đã có chẩn đoán HIV trước đó (87% đã bắt đầu điều trị ART). Chúng tôi đã đo lường số lượng tế bào CD4 ở 365/438 (83%), serum CrAg ở 301/438 (69%), urine LAM ở 363/438 (83%), và urine X-pert ở 292/438 (67%). Số lượng tế bào CD4 trung bình là 144 tế bào/ml (IQR 46–307). Tỷ lệ dương tính với serum CrAg là 23/301 (8%) và CM được xác nhận bằng CSF CrAg ở 13/23 (56%). Phần lớn bệnh nhân CM 9/13 (69%) bắt đầu điều trị thuốc chống nấm trong vòng hai ngày kể từ khi chẩn đoán. Tỷ lệ dương tính của urine LAM và urine X-pert lần lượt là 81/363 (22%) và 14/292 (5%). Tỷ lệ dương tính của urine LAM cao hơn ở những bệnh nhân có số lượng tế bào CD4 thấp (< 100 tế bào/ml) và BMI thấp (< 18.5). Hầu hết các bệnh nhân có urine LAM dương tính đã bắt đầu điều trị TB cùng ngày. Mặc dù đã phát hiện sớm và điều trị TB và CM, tỷ lệ tử vong trong bệnh viện vẫn cao; lần lượt là 30% và 25%.

Kết luận

Mặc dù các xét nghiệm chẩn đoán nhanh HIV giai đoạn nặng được khuyến cáo, một thách thức chính trong việc triển khai là số lượng nhân viên được đào tạo hạn chế để thực hiện các xét nghiệm. Mặc dù việc sử dụng hiệu quả các xét nghiệm point of care trong chăm sóc lâm sàng cho bệnh nhân TB và CM nhập viện, tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân này vẫn ở mức cao không thể chấp nhận. Do đó, chúng tôi cần đào tạo thêm các nhóm nhân viên ngoài y tá, bác sĩ lâm sàng và kỹ thuật viên phòng thí nghiệm để thực hiện các xét nghiệm này. Cần thiết phải xác định và sửa đổi các yếu tố nguy cơ khác gây ra tỷ lệ tử vong từ TB và CM.

#HIV #viêm màng não do nấm Cryptococcus #bệnh lao #xét nghiệm chẩn đoán nhanh #chăm sóc bệnh nhân
Mô Hình Học Tập Tổ Hợp Xếp Chồng Để Nhận Diện Trạng Thái Tinh Thần Hướng Tới Việc Triển Khai Giao Diện Não-Máy Tính Dịch bởi AI
2019 6th NAFOSTED Conference on Information and Computer Science (NICS) - - Trang 39-43 - 2019
Bài báo này trình bày một mô hình học tập tổ hợp xếp chồng mới nhằm cải thiện phân loại trạng thái tinh thần cho việc triển khai giao diện não-máy tính. Mô hình đề xuất kết hợp các phương pháp dựa trên học máy sử dụng máy vector hỗ trợ, mạng nơ-ron nhân tạo và học sâu, cùng với quy tắc chọn mô hình để phân loại tín hiệu EEG thành các trạng thái tinh thần chính xác. Mô hình học tập tổ hợp đề xuất đã được xác thực trên một tập dữ liệu EEG trong đó tín hiệu EEG được ghi lại từ bốn đối tượng. Ba nhiệm vụ tinh thần là chuyển đổi tâm trí vào trạng thái Zen (Trung lập), hình dung cách để bật đèn (Sáng) và ghi nhớ nội dung bài báo khoa học (Bài báo). Các kết quả thực nghiệm cho thấy mô hình học tập tổ hợp này có tính ổn định và hiệu quả khi so sánh với các mô hình và phương pháp học máy hiện có khác cho cùng một mục đích.
#Ensemble learning #EEG signals #Brain computer interface #Deep learning #Sparse autoencoder
NHẬN XÉT ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN GIÁP THỂ NHÚ ĐƯỢC PHẪU THUẬT CẮT TOÀN BỘ TUYẾN GIÁP VÀ NẠO VÉT HẠCH CỔ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến giáp thể nhú (UTBMTGTN) được phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp và nạo vét hạch cổ. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 200 bệnh nhân được chẩn đoán, phẫu thuật UTBMTGTN và nạo vét hạch cổ tại khoa Tai Mũi Họng – Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 8/2021 đến tháng 7/2022. Đối tượng nghiên cứu được khai thác tiền sử, khám lâm sàng, cận lâm sàng trước và sau phẫu thuật để ghi nhận các chỉ số nghiên cứu. Kết quả: Đối tượng nghiên cứu có tuổi trung bình 43,6 ± 11,7 tuổi; tỷ lệ nam/ nữ = 4,6. Trên siêu âm, tỉ lệ bệnh nhân có 1 u giáp chiếm 69%, u giáp nằm ở thùy phải chiếm 50%, u giáp dưới 1cm chiếm 62%, khối u giảm âm chiếm 91%, có vôi hóa chiếm 73%, khối u phá vỡ vỏ chiếm 19%, TIRADS 4 chiếm 74,5%. Đa số bệnh nhân chức năng tuyến giáp bình thường trước phẫu thuật (86,5%). Kết luận: UTBMTGTN đang gia tăng trong những năm gần đây. Bệnh thường gặp ở nữ giới, tỉ lệ di căn hạch thường gặp ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi (< 45 tuổi). Hình ảnh trên siêu âm thường gặp: khối u giáp giảm âm, kích thước < 1cm, nằm ở thùy phải, có vôi hóa, đơn ổ và khu trú trong tuyên giáp. Nam giới, tuổi (< 45), kích thước u (≥ 1 cm), số lượng khối u, xâm lấn ngoài tuyến giáp là các nguy cơ độc lập của di căn hạch cổ.
#Ung thư biểu mô tuyến giáp thể nhú #nạo vét hạch cổ
Nhận xét đặc điểm lâm sàng và mức độ hoạt động độc lập trong sinh hoạt hàng ngày theo thang điểm Barthel của người bệnh tai biến mạch máu não tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2019
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 4 - Trang 77-83 - 2020
Mục tiêu: Nhận xét đặc điểm lâm sàng và xác định tỷ lệ hoạt động độc lập trong sinh hoạt hàng ngày theo thang điểm Barthel của người bệnh tai biến mạch máu não tại khoa Thần kinh và khoa Nội Cán bộ Lão khoa-Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2019. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 112 bệnh nhân được chẩn đoán tai biến mạch máu não, đủ tiêu chuẩn nghiên cứu, được quan sát đánh giá mức độ hoạt động độc lập theo thangđiểm Barthel. Kết quả: Điểm Barthel trung bình của người bệnh là 55,00 28,18. Tỷlệngười bệnh độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày là 17,9%, tỷlệngười bệnh cần trợgiúp là 42,9% và phụthuộc hoàn toàn là 39,3%. Kết luận: Tỷ lệ người bệnh cần sự trợgiúp trong hoạt động hàng ngày còn khá cao nên đòi hỏi nhân viên y tế và người nhà phải có sự quan tâm đặc biệt đến những người bệnh bị tai biến mạch máu não
#Tai biến mạch máu não #hoạt động độc lập #thang điểm Barthel.
NHẬN XÉT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA HỘI CHỨNG NGƯNG THỞ KHI NGỦ Ở BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ NÃO
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng của hội chứng ngưng thở khi ngủ ở bệnh nhân đột quỵ não. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 29 bệnh nhân đột quỵ mắc hội chứng ngưng thở khi ngủ tại bệnh viện Bạch Mai từ tháng 8/2021 đến tháng 8/2022. Kết quả: Nhóm nam gồm 24 người (82.76%), tuổi trung bình bằng 68.33±9.67. Nhóm nữ gồm 5 người (17.24%), tuổi trung bình: 69.2±7.66. Không có sự khác biệt về trung bình tuổi giữa 2 giới (p=0.52). Trong số 29 bệnh nhân có 2 bệnh nhân nhân có cân nặng bình thường, 7 bệnh nhân thừa cân, 20 bệnh nhân béo phì. Chu vi vòng cổ ≥40 cm gặp ở 20 bệnh nhân. Tăng huyết áp là bệnh lí đồng mắc hay gặp nhất  chiếm 82.76%. Trong 29 bệnh nhân, ngưng thở khi ngủ mức độ nhẹ là 10 bệnh nhân, trung bình là 7 bệnh nhân, nặng là 12 bệnh nhân. Ngủ ngáy là triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất ở nhóm nghiên cứu (26 bệnh nhân, chiếm 89.66%). Không có sự khác biệt về huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương giữa các mức độ ngưng thở khi ngủ. Trong 29 bệnh nhân có 19 bệnh nhân đột quỵ mức độ nhẹ, và 10 bệnh nhân đột quỵ mức độ vừa. Không có sự khác biệt về điểm NIHSS giữa các mức độ ngưng thở khi ngủ. Kết luận: Nên chú ý và sàng lọc những bệnh nhân có nguy cơ cao mắc hội chứng ngưng thở khi ngủ như có chỉ số BMI cao, đái tháo đường, tiền sử thường xuyên ngáy to-không đều và cơn ngừng thở được chứng kiến
#hội chứng ngưng thở khi ngủ #đột quỵ não.
16. Tác dụng của điện châm kết hợp tập vận động và đeo đai trên bệnh nhân bán trật khớp vai sau nhồi máu não
Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá tác dụng của điện châm kết hợp tập vận động và đeo đai trên bệnh nhân bán trật khớp vai sau nhồi máu não. Nghiên cứu can thiệp, so sánh trước sau và có đối chứng. 60 bệnh nhân được chẩn đoán bán trật khớp vai sau nhồi máu não chia thành hai nhóm đảm bảo tương đồng về tuổi, giới, mức độ bán trật khớp vai trên X-quang. Nhóm nghiên cứu được điện châm kết hợp tập vận động và đeo đai; nhóm chứng được tập vận động và đeo đai, 5 ngày/tuần trong 4 tuần. Nhóm nghiên cứu cải thiện khoảng cách, mức độ bán trật khớp vai, tầm vận động, cơ lực khớp vai và chức năng vận động chi trên: giảm khoảng cách bán trật khớp vai từ 16,52 ± 4,69mm xuống 10,31 ± 3,49mm và điểm FMA (Fugl-Myer Assessment) vai/cánh tay/cẳng tay và cổ tay ở nhóm nghiên cứu tốt hơn so với nhóm chứng (p < 0,05).
#Bán trật khớp vai #Điện châm #Tập vận động khớp vai #Đai khớp vai
Áp xe đồi thị vỡ vào não thất ở trẻ em: Báo cáo ca bệnh
Áp xe đồi thị là một bệnh lý rất hiếm gặp ở trẻ em, chỉ được mô tả trên y văn dưới dạng các báo cáo ca bệnh đơn lẻ. Bệnh cần được phát hiện sớm và lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp để hạn chế các biến chứng, đặc biệt là áp xe vỡ vào não thất. Chúng tôi báo cáo một ca bệnh 13 tuổi, nam, tiền sử khỏe mạnh, vào viện vì sốt, nôn, đau đầu. Bệnh nhân được chẩn đoán áp xe đồi thị vỡ vào não thất dựa vào triệu chứng lâm sàng, kết quả chọc dịch não tủy và hình ảnh tổn thương trên phim cộng hưởng từ sọ não. Bệnh nhân được điều trị trong 8 tuần với liệu pháp kháng sinh đơn thuần. Bệnh nhân khỏi bệnh và không để lại di chứng.
#Áp xe não #áp xe đồi thị #áp xe vỡ vào não thất
HIỆU QUẢ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG BÀN TAY Ở BỆNH NHÂN LIỆT NỬA NGƯỜI DO NHỒI MÁU NÃO ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ BẰNG ĐIỆN CHÂM KẾT HỢP BÀI TẬP CIMT
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 64 Số chuyên đề 5 - 2023
Mục tiêu: Mô tả các đặc điểm thay đổi chức năng bàn tay bên liệt ở bệnh nhân liệt nửa người donhồi máu não sau giai đoạn cấp và đánh giá tác dụng điều trị phục hồi chức năng vận động của bàntay bên liệt bằng điện châm kết hợp bài tập CIMT. Đối tượng và phương pháp: can thiệp lâm sàngcó đối chứng so sánh kết quả trước, sau điều trị trên 84 bệnh nhân được chẩn đoán liệt nửa người sauđột quỵ nhồi máu não. Kết quả: 100% số BN nghiên cứu bị thay đổi chức năng vận động của bàn taybên liệt sau đột quỵ, trong đó chức năng đối chiếu ngón cái với các ngón khác chiếm tỷ lệ cao nhất94,05%. Điện châm kết hợp tập bài tập CIMT có tác dụng phục hồi chức năng vận động của bàn taybên liệt tốt hơn so với nhóm chỉ được điều trị bằng điện châm đơn thuần (p<0,05). Kết luận: Điệnchâm kết hợp bài tập CIMT có tác dụng trong phục hồi chức năng vận động của bàn tay bên liệt ởbệnh nhân liệt nửa người do nhồi máu não.
#Đột quỵ #chức năng vận động của bàn tay #điện châm #bài tập CIMT.
R2DRV: phương pháp nghiên cứu đánh giá theo chiều dọc về lái xe sau chấn thương sọ não nhẹ ở người lái xe trẻ Dịch bởi AI
Injury Epidemiology -
Tóm tắt Bối cảnh

Chấn thương não nhẹ (mTBI) và các chấn thương liên quan đến giao thông là hai vấn đề sức khỏe cộng đồng lớn ảnh hưởng không tương xứng đến tầng lớp thanh niên. Những người lái xe trẻ, đang trong quá trình phát triển kỹ năng lái, đặc biệt dễ bị suy giảm khả năng lái do chấn thương não. Mặc dù vậy, còn thiếu sót nghiên cứu về tác động của mTBI đối với việc lái xe và thời điểm nào là an toàn để trở lại lái xe sau khi bị mTBI. Bài viết này mô tả quy trình của nghiên cứu R2DRV, Đánh giá theo chiều dọc về lái xe sau chấn thương sọ não nhẹ ở người lái xe trẻ, nghiên cứu quỹ đạo của hiệu suất lái xe mô phỏng và hành vi lái được tự báo cáo từ thời điểm ngay sau chấn thương đến khi triệu chứng được giải quyết ở nhóm người lái xe trẻ bị mTBI so với những người lái xe khỏe mạnh được khớp nối. Ngoài ra, nghiên cứu còn điều tra mối liên quan giữa chức năng thần kinh nhận thức ngay sau chấn thương và tải nhận thức với việc lái xe ở những người lái xe trẻ có và không có mTBI.

Phương pháp

Tổng cộng 200 người lái xe trẻ (từ 16 đến 24 tuổi) được tuyển chọn từ hai địa điểm nghiên cứu, bao gồm 100 (50 cho mỗi địa điểm) người bị mTBI cô lập được xác nhận bởi bác sĩ, cùng với 100 (50 cho mỗi địa điểm) người lái xe khỏe mạnh không có tiền sử TBI, được ghép 1:1 theo độ tuổi, giới tính, kinh nghiệm lái xe và tình trạng vận động viên. Nghiên cứu đánh giá các kết quả chính về việc lái xe bằng hai cách: (1) sử dụng các mô phỏng lái xe chuyên nghiệp cao để đánh giá hiệu suất lái ở bốn điều kiện nghiên cứu thực nghiệm tại nhiều thời điểm (trong vòng 96 giờ sau chấn thương và hàng tuần cho đến khi triệu chứng được giải quyết hoặc 8 tuần sau chấn thương); (2) Các khảo sát tự báo cáo hàng ngày về hành vi lái xe trong thực tế do tất cả các người tham gia hoàn thành.

Thảo luận

Nghiên cứu này sẽ lấp đầy những khoảng trống kiến thức quan trọng bằng cách đánh giá theo chiều dọc hiệu suất và hành vi lái xe ở những người lái xe trẻ bị mTBI, so với người lái xe khỏe mạnh được ghép nối, từ thời điểm ngay sau chấn thương đến khi triệu chứng được giải quyết. Chiến lược nghiên cứu cho phép đánh giá việc tăng cường tải nhận thức có thể làm trầm trọng thêm tác động của mTBI đối với việc lái xe, và cách mà các khiếm khuyết thần kinh nhận thức sau mTBI có thể ảnh hưởng đến khả năng lái xe của những người lái xe trẻ. Các phát hiện sẽ được chia sẻ qua các hội nghị khoa học, tạp chí được bình duyệt, và các hoạt động truyền thông đến các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc và công chúng.

Tổng số: 34   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4