Scholar Hub/Chủ đề/#áp xe não/
Áp xe nồi là thông số đo áp suất trong không gian nồi hơi của động cơ, đo lường mức độ tăng áp của turbocharger (còn gọi là sạc khí) trong hệ thống nạp khí động...
Áp xe nồi là thông số đo áp suất trong không gian nồi hơi của động cơ, đo lường mức độ tăng áp của turbocharger (còn gọi là sạc khí) trong hệ thống nạp khí động cơ. Áp xe nồi thông thường được đo bằng đơn vị PSI (pounds per square inch).
Áp xe nồi (hay còn gọi là áp suất động cơ) là áp suất khí nén bên trong nồi hơi của động cơ trong quá trình hoạt động. Đối với động cơ đốt trong, áp xe nồi thường được tạo ra bởi quá trình đốt nhiên liệu, nơi hỗn hợp nhiên liệu và không khí được cháy trong không gian nồi hơi trong động cơ.
Áp xe nồi quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất và công suất của động cơ. Khi áp xe nồi tăng, nhiều khí nén tiếp xúc với nhiên liệu, giúp nhiên liệu cháy mạnh mẽ hơn, làm tăng công suất động cơ. Điều này thường được thực hiện thông qua việc sử dụng các hệ thống tuần hoàn, như turbocharger hoặc supercharger, để nạp thêm khí nén vào nồi hơi.
Công cụ đo áp suất được sử dụng để đo áp xe nồi thường là một bộ đồng hồ đo áp suất, hiển thị áp suất nén tích hợp trong động cơ. Đơn vị thông thường để đo áp xe nồi là PSI (pound per square inch) hoặc bar. Đối với các động cơ tăng áp, áp xe nồi thường cao hơn so với động cơ không tăng áp. Ví dụ, một động cơ tăng áp có thể có áp xe nồi khoảng 10-15 PSI.
Áp xe nồi cũng có thể được kiểm soát bằng cách điều chỉnh van wastegate hoặc van blow-off. Các van này giúp điều chỉnh áp suất nén để đảm bảo động cơ hoạt động ổn định và tránh hỏng hóc do áp suất quá cao.
Trong tổng quát, áp xe nồi là một khía cạnh quan trọng trong quá trình hoạt động của động cơ đốt trong và đóng vai trò quan trọng trong tăng cường hiệu suất và công suất của xe.
Áp xe nồi (hay còn gọi là áp suất động cơ) là áp suất khí nén bên trong nồi hơi của động cơ trong quá trình hoạt động. Áp suất này được tạo ra bởi quá trình cháy nhiên liệu và không khí trong không gian nồi hơi.
Trong một động cơ đốt trong, quá trình cháy nhiên liệu và không khí xảy ra trong nồi hơi của động cơ. Lúc này, nồi hơi đóng vai trò như một không gian nén, nơi áp suất tăng lên đáng kể. Áp suất đột ngột và mạnh mẽ này tạo ra một lực đẩy để lái xe di chuyển và tạo ra công suất.
Đơn vị thông thường để đo áp xe nồi là PSI (pound per square inch) hoặc bar. Áp xe nồi thường được hiển thị trên một bộ đồng hồ đo áp suất tích hợp trong trang bị của động cơ. Khi động cơ hoạt động, áp xe nồi có thể thay đổi, tùy thuộc vào tốc độ, tải trọng và điều kiện môi trường.
Áp xe nồi cũng phụ thuộc vào các yếu tố khác như hệ thống nạp khí (turbocharger hoặc supercharger). Nhờ có hệ thống nạp khí, lượng khí nén nạp vào nồi hơi tăng lên, từ đó tạo ra áp xe nồi cao hơn so với động cơ không nạp khí.
Ví dụ, trong một động cơ tăng áp, áp xe nồi có thể đạt từ 10 PSI đến 30 PSI tuỳ thuộc vào cấu hình và mục đích sử dụng. Các động cơ tăng áp giúp tăng công suất và hiệu suất động cơ bằng cách cung cấp thêm khí nén vào nồi hơi, tạo ra một luồng khí mạnh hơn để đốt nhiên liệu hiệu quả hơn.
Áp suất nồi hơi cũng có thể được kiểm soát bằng cách sử dụng các van điều chỉnh như van wastegate hoặc van blow-off. Van wastegate giúp điều chỉnh áp suất nén bằng cách xả bỏ một phần khí nén ra không gian không khí. Van blow-off được sử dụng để giảm áp suất đột ngột trong hệ thống nạp khí khi áp suất quá cao.
Tổng quát, áp xe nồi đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của động cơ đốt trong, ảnh hưởng đến công suất và hiệu suất của nó. Việc hiểu và kiểm soát áp xe nồi sẽ giúp đảm bảo hiệu quả hoạt động của động cơ và đồng thời tăng cường hiệu suất của xe.
Rối loạn đường huyết lúc đói hoặc suy giảm dung nạp glucose. Dấu hiệu nào dự đoán tốt nhất bệnh tiểu đường trong tương lai ở Mauritius? Diabetes Care - Tập 22 Số 3 - Trang 399-402 - 1999
MỤC TIÊU: Xác định liệu rối loạn đường huyết lúc đói (IFG; mức glucose huyết tương lúc đói 6,1-6,9 mmol/l) có thể dự đoán đáng tin cậy sự phát triển của bệnh tiểu đường loại 2 như suy giảm dung nạp glucose (IGT; mức glucose huyết tương sau 2 giờ 7,8-11,0 mmol/l) hay không. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP: Một nghiên cứu dài hạn theo dân số được tiến hành với các khảo sát năm 1987 và 1992 tại đảo Mauritius, đánh giá tình trạng tiểu đường bằng việc kiểm tra dung nạp glucose qua đường uống. Tổng cộng có 3.717 người tham gia cả hai cuộc khảo sát. Trong số này, 3.229 người không mắc bệnh tiểu đường vào năm 1987 và hình thành cơ sở của nghiên cứu này. KẾT QUẢ: Lúc ban đầu, có 607 đối tượng mắc IGT và 266 đối tượng mắc IFG. Có 297 đối tượng phát triển bệnh tiểu đường vào năm 1992. Để dự đoán tiến triển thành bệnh tiểu đường loại 2, độ nhạy, độ đặc hiệu, và giá trị tiên đoán dương tính là 26, 94, và 29% cho IFG và 50, 84, và 24% cho IGT, tương ứng. Chỉ có 26% số đối tượng tiến triển thành bệnh tiểu đường loại 2 được dự đoán qua giá trị IFG của họ, nhưng 35% nữa có thể được xác định bằng cách xem xét cả IGT. Độ nhạy là 24% cho IFG và 37% cho IGT ở nam giới và 26% cho IFG và 66% cho IGT ở phụ nữ, tương ứng. KẾT LUẬN: Dữ liệu này chứng minh độ nhạy cao hơn của IGT so với IFG trong việc dự đoán tiến triển thành bệnh tiểu đường loại 2. Sàng lọc chỉ theo tiêu chí IFG sẽ xác định ít người tiến triển thành bệnh tiểu đường loại 2 hơn so với kiểm tra dung nạp glucose qua đường uống.
#rối loạn đường huyết lúc đói #suy giảm dung nạp glucose #bệnh tiểu đường loại 2 #dự đoán tiểu đường #xét nghiệm dung nạp glucose #nghiên cứu dân số
Nhận xét đặc điểm lâm sàng và mức độ hoạt động độc lập trong sinh hoạt hàng ngày theo thang điểm Barthel của người bệnh tai biến mạch máu não tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2019 Mục tiêu: Nhận xét đặc điểm lâm sàng và xác định tỷ lệ hoạt động độc lập trong sinh hoạt hàng ngày theo thang điểm Barthel của người bệnh tai biến mạch máu não tại khoa Thần kinh và khoa Nội Cán bộ Lão khoa-Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2019.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 112 bệnh nhân được chẩn đoán tai biến mạch máu não, đủ tiêu chuẩn nghiên cứu, được quan sát đánh giá mức độ hoạt động độc lập theo thangđiểm Barthel.
Kết quả: Điểm Barthel trung bình của người bệnh là 55,00 28,18. Tỷlệngười bệnh độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày là 17,9%, tỷlệngười bệnh cần trợgiúp là 42,9% và phụthuộc hoàn toàn là 39,3%.
Kết luận: Tỷ lệ người bệnh cần sự trợgiúp trong hoạt động hàng ngày còn khá cao nên đòi hỏi nhân viên y tế và người nhà phải có sự quan tâm đặc biệt đến những người bệnh bị tai biến mạch máu não
#Tai biến mạch máu não #hoạt động độc lập #thang điểm Barthel.
16. Tác dụng của điện châm kết hợp tập vận động và đeo đai trên bệnh nhân bán trật khớp vai sau nhồi máu não Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá tác dụng của điện châm kết hợp tập vận động và đeo đai trên bệnh nhân bán trật khớp vai sau nhồi máu não. Nghiên cứu can thiệp, so sánh trước sau và có đối chứng. 60 bệnh nhân được chẩn đoán bán trật khớp vai sau nhồi máu não chia thành hai nhóm đảm bảo tương đồng về tuổi, giới, mức độ bán trật khớp vai trên X-quang. Nhóm nghiên cứu được điện châm kết hợp tập vận động và đeo đai; nhóm chứng được tập vận động và đeo đai, 5 ngày/tuần trong 4 tuần. Nhóm nghiên cứu cải thiện khoảng cách, mức độ bán trật khớp vai, tầm vận động, cơ lực khớp vai và chức năng vận động chi trên: giảm khoảng cách bán trật khớp vai từ 16,52 ± 4,69mm xuống 10,31 ± 3,49mm và điểm FMA (Fugl-Myer Assessment) vai/cánh tay/cẳng tay và cổ tay ở nhóm nghiên cứu tốt hơn so với nhóm chứng (p < 0,05).
#Bán trật khớp vai #Điện châm #Tập vận động khớp vai #Đai khớp vai
NHẬN XÉT ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN GIÁP THỂ NHÚ ĐƯỢC PHẪU THUẬT CẮT TOÀN BỘ TUYẾN GIÁP VÀ NẠO VÉT HẠCH CỔ Mục tiêu: Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến giáp thể nhú (UTBMTGTN) được phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp và nạo vét hạch cổ. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 200 bệnh nhân được chẩn đoán, phẫu thuật UTBMTGTN và nạo vét hạch cổ tại khoa Tai Mũi Họng – Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 8/2021 đến tháng 7/2022. Đối tượng nghiên cứu được khai thác tiền sử, khám lâm sàng, cận lâm sàng trước và sau phẫu thuật để ghi nhận các chỉ số nghiên cứu. Kết quả: Đối tượng nghiên cứu có tuổi trung bình 43,6 ± 11,7 tuổi; tỷ lệ nam/ nữ = 4,6. Trên siêu âm, tỉ lệ bệnh nhân có 1 u giáp chiếm 69%, u giáp nằm ở thùy phải chiếm 50%, u giáp dưới 1cm chiếm 62%, khối u giảm âm chiếm 91%, có vôi hóa chiếm 73%, khối u phá vỡ vỏ chiếm 19%, TIRADS 4 chiếm 74,5%. Đa số bệnh nhân chức năng tuyến giáp bình thường trước phẫu thuật (86,5%). Kết luận: UTBMTGTN đang gia tăng trong những năm gần đây. Bệnh thường gặp ở nữ giới, tỉ lệ di căn hạch thường gặp ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi (< 45 tuổi). Hình ảnh trên siêu âm thường gặp: khối u giáp giảm âm, kích thước < 1cm, nằm ở thùy phải, có vôi hóa, đơn ổ và khu trú trong tuyên giáp. Nam giới, tuổi (< 45), kích thước u (≥ 1 cm), số lượng khối u, xâm lấn ngoài tuyến giáp là các nguy cơ độc lập của di căn hạch cổ.
#Ung thư biểu mô tuyến giáp thể nhú #nạo vét hạch cổ
GIÁ TRỊ CỦA CHT KHUẾCH TÁN TRONG CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT ÁP XE NÃO VÀ U NÃO HOẠI TỬ HOẶC U NÃO DẠNG NANG TÓM TẮTMục tiêu: Đánh giá giá trị của cộng hưởng từ khuếch tán trong chẩn đoán phân biệt áp xe não và u não hoại tử hoặc u não dạng nang.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 53 bệnh nhân có thương tổn khối trong trục ngấm quang viền được chẩn đoán trên CHT sọ não. Trong đó có 28 trường hợp áp xe não và 25 trường hợp u não. Tất cả đều được chụp CHT sọ não với xung khuếch tán, giá trị b (0, 500, 1000) trên máy CHT Philip achieva 1.5 T.Kết quả: Chẩn đoán xác định áp xe não với độ nhạy 96,4%, độ đặc hiệu 96%, giá trị dự báo dương tính 96,4%, giá trị dự báo âm tính 96%. Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của giá trị ADCtrung bình trung tâm của áp xe não và u não (p=0,004). Giá trị ADC trung bình trung tâm của áp xe não là 0,71 ± 0,24 x 10-3mm2/s và u não là 2,23 ± 0,44 x 10-3 mm2/s. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê của trị ADC trung bình ngoại vi của áp xe não và u não (p = 0,132). Giá trị ADC trung bình ngoại vi của áp xe não là 0,78±0,26 x 10-3mm2/s và u não là 0,82±0,28 x 10-3mm2/s. Đường cong ROC dự báo áp xe não ở giá trị ADC có độ nhạy 94,6% và độ đặc hiệu 100% ở điểm cắt ADC ≤ 0,86 x 10-3mm2/s.Kết luận: CHT khuếch tán có độ nhạy, độ đặc hiệu cao (96,4 %; 96%) trong chẩn đoán xác định áp xe não cũng như u não dạng nang hay u não hoại tử.
#Cộng hưởng từ khuếch tán #áp xe não #u não #giá trị ADC
NHÂN 3 TRƯỜNG HỢP ÁP XE NÃO DO VIÊM XOANG: CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY Qua 3 trường hợp báo cáo, cho chúng ta thấy hầu hết triệu chứng của viêm xoang biến chứng áp xe não bao gồm các triệu chứng sau: hội chứng tăng áp lực nội sọ (đau đầu, nôn ói, thay đổi tri giác). Bên cạnh đó, là triệu chứng về mắt (giảm thị lực/ mù mắt, hạn chế vận nhãn,…). Triệu chứng viêm mũi xoang mạn thường không rầm rộ. 3 trường trường hợp đều được hổ trợ CT scan/ MRI giúp chẩn đoán xác định. Được điều trị kết hợp nội khoa, bệnh lý kèm theo và phẫu thuật dẫn lưu ổ áp xe, cùng với lấy hết bệnh tích vùng mũi xoang bị viêm. 3 trường hợp đều điều trị kéo dài khoảng 4 tuần với kháng sinh qua màng não và đều xuất viện ổn định. Và cho thấy đường lan truyền gây áp xe não từ xoang có thể lan truyền trực tiếp hoặc gián tiếp qua đường máu.
#viêm xoang biến chứng #áp xe não do viêm xoang #áp xe não
NHẬN XÉT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA HỘI CHỨNG NGƯNG THỞ KHI NGỦ Ở BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ NÃO Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng của hội chứng ngưng thở khi ngủ ở bệnh nhân đột quỵ não. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 29 bệnh nhân đột quỵ mắc hội chứng ngưng thở khi ngủ tại bệnh viện Bạch Mai từ tháng 8/2021 đến tháng 8/2022. Kết quả: Nhóm nam gồm 24 người (82.76%), tuổi trung bình bằng 68.33±9.67. Nhóm nữ gồm 5 người (17.24%), tuổi trung bình: 69.2±7.66. Không có sự khác biệt về trung bình tuổi giữa 2 giới (p=0.52). Trong số 29 bệnh nhân có 2 bệnh nhân nhân có cân nặng bình thường, 7 bệnh nhân thừa cân, 20 bệnh nhân béo phì. Chu vi vòng cổ ≥40 cm gặp ở 20 bệnh nhân. Tăng huyết áp là bệnh lí đồng mắc hay gặp nhất chiếm 82.76%. Trong 29 bệnh nhân, ngưng thở khi ngủ mức độ nhẹ là 10 bệnh nhân, trung bình là 7 bệnh nhân, nặng là 12 bệnh nhân. Ngủ ngáy là triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất ở nhóm nghiên cứu (26 bệnh nhân, chiếm 89.66%). Không có sự khác biệt về huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương giữa các mức độ ngưng thở khi ngủ. Trong 29 bệnh nhân có 19 bệnh nhân đột quỵ mức độ nhẹ, và 10 bệnh nhân đột quỵ mức độ vừa. Không có sự khác biệt về điểm NIHSS giữa các mức độ ngưng thở khi ngủ. Kết luận: Nên chú ý và sàng lọc những bệnh nhân có nguy cơ cao mắc hội chứng ngưng thở khi ngủ như có chỉ số BMI cao, đái tháo đường, tiền sử thường xuyên ngáy to-không đều và cơn ngừng thở được chứng kiến
#hội chứng ngưng thở khi ngủ #đột quỵ não.
Áp xe đồi thị vỡ vào não thất ở trẻ em: Báo cáo ca bệnh Áp xe đồi thị là một bệnh lý rất hiếm gặp ở trẻ em, chỉ được mô tả trên y văn dưới dạng các báo cáo ca bệnh đơn lẻ. Bệnh cần được phát hiện sớm và lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp để hạn chế các biến chứng, đặc biệt là áp xe vỡ vào não thất. Chúng tôi báo cáo một ca bệnh 13 tuổi, nam, tiền sử khỏe mạnh, vào viện vì sốt, nôn, đau đầu. Bệnh nhân được chẩn đoán áp xe đồi thị vỡ vào não thất dựa vào triệu chứng lâm sàng, kết quả chọc dịch não tủy và hình ảnh tổn thương trên phim cộng hưởng từ sọ não. Bệnh nhân được điều trị trong 8 tuần với liệu pháp kháng sinh đơn thuần. Bệnh nhân khỏi bệnh và không để lại di chứng.
#Áp xe não #áp xe đồi thị #áp xe vỡ vào não thất
BÁO CÁO CA BỆNH ÁP XE NÃO DO MELIOIDOSIS Melioidosis là một bệnh nhiễm trùng do trực khuẩn gram âm Burkholderia pseudomallei gây ra. Bệnh hiện đã gia tăng nhiều trên phạm vi toàn thế giới. Bệnh gây tổn thương ở nhiều cơ quan, trong đó hay gặp nhất là phổi, sau đó là da và tổ chức dưới da, các tạng như lách, gan, thận, tiền liệt tuyến. Tổn thương hệ thần kinh trong Melioidosis là thể bệnh hiếm gặp. Trong bài viết này chúng tôi mô tả một ca bệnh nhân áp xe não do nhiễm Burkholderia pseudomallei với đặc điểm lâm sàng và hình ảnh có được trên phim cộng hưởng từ sọ não.
#Áp xe não #Melioidosis #Whitmore #Burkholderia pseudomallei